Test post

Testtttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttt

Thăng trầm cây tre

tre việt nam, vẻ đẹp việt
Cây tre

Cây tre đã đi vào văn hoá Việt Nam như một hình ảnh bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm. Thế nhưng những năm gần đây, có một thực tế đáng buồn là loại cây đa dạng, thiết thực trong mọi mặt đời sống này đã bị coi nhẹ, bị chặt phá, bị thoái hoá... bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.

 Có mặt ở nhiều nước Châu á như ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Philippines, Indonesia từ xa xưa, cây tre cũng gắn bó với người nông dân VN từ nghìn năm rồi. Hình ảnh làng quê VN từ xưa gắn liền với luỹ tre làng - những bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên tai và che chắn cho mỗi làng Việt trước trộm đạo, giặc cướp và kẻ xâm lược - nhân tai. Không thể kể hết tính đắc dụng của tre đối với người nông dân VN: làm nhà cửa (vì kèo, lanh tô, phên liếp, vách tường...), làm vô số vật dụng: cái cần câu, cái vó cất tôm cất tép, cái đó, bè mảng, cái cầu ao và cả những cái cầu bắc qua những con mương, con kênh nhỏ. Tre từng được sử dụng phổ biến để làm đồ gia dụng: bàn ghế, giường chõng, các loại vật dụng sinh hoạt từ cái đòn gánh và đôi quang (thứ vật liệu đa dụng để gánh mọi thứ ra đồng và gánh lúa từ đồng về nhà, chưa kể còn được dùng như một thứ “tủ lạnh” thông thoáng để bảo quản thức ăn và chống chó, mèo, chuột hữu hiệu) đến cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rổ, cái rá, cái dần, cái sàng gạo, cái rế đựng nồi, cái gáo múc nước, cái bừa, cái cào, cái ách khoác lên cổ con trâu cày đến con dao cật nứa cắt rốn lúc chào đời, cái quạt nan, đôi đũa, cái tăm... nhiều thứ vật dụng làm bằng tre còn được dùng đến ngày nay. Đấy là còn chưa nói tới các loại vật dụng của nhà nông, cũng như nhiều loại vũ khí thời xưa của cha ông ta đều có phần cán, phần tay cầm làm bằng một loại cây nào đó thuộc họ tre. Cây gậy tầm vông thời đánh Pháp xâm lược là một chứng tích đã đi vào lịch sử. Cây nêu dựng lên trước cửa nhà vào dịp năm mới thời xưa để trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút lông của các nhà nho mà những năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thấy, đến những cánh diều mà hôm nay con trẻ còn chơi... tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có vẻ thuận tiện hơn, có vẻ đẹp đẽ hơn đã đẩy chúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như thế. Thậm chí có một thời ấu trĩ, người ta đã chặt đi những bụi tre gai quanh làng với lý do là chúng làm đất bạc màu. Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống nơi bờ ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở. Nhưng xem ra chỉ có ở VN là cây tre và các loại tre vẫn bị bỏ quên. Hiện nay, khoảng hơn 1.000 loài thuộc họ tre đã được trồng ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở các nơi có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Các nước phát triển ngày càng coi trọng cây tre và ưa thích các loại sản phẩm chế biến từ tre. ở các nước Đông á, nơi được coi là quê hương của cây tre, đang có xu hướng quay trở lại sử dụng loại vật liệu có nhiều đặc tính quý báu này trong mọi mặt của đời sống. Một ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm từ tre đã ra đời và đang phát triển mạnh ở một số nước Châu Á.

Đi đầu trong những nước này là Trung Quốc. Tre và các loại cây thuộc họ tre phát triển chủ yếu ở các tỉnh phía Nam Trung Quốc, những năm gần đây xuất khẩu hơn nửa triệu mét vuông mỗi năm. VN, đất nước mà cây tre, cây trúc mọc từ ngàn đời, những năm gần đây cũng tiêu thụ không ít chiếu trúc, chiếu tre nhập từ Trung Quốc, và xu hướng này vẫn đang tiếp diễn!!! Mỗi hécta trồng tre chất lượng cao đem lại thu nhập 15.000 USD mỗi năm cho người nông dân Trung Quốc. Các tác phẩm mỹ thuật tinh xảo được dệt thủ công từ sợi tre (được chẻ nhỏ và chế biến bằng công nghệ hiện đại) xuất sang thị trường Singapore gần đây thật đáng chú ý. Trái với quan niệm trước đây là cây tre làm đất bạc màu, kết quả nghiên cứu do Viện Nghiên cứu và phát triển sinh thái (trụ sở ở Lugana, Philippines) cho thấy cây tre đã cải tạo thành công ở những vùng đất bị tro núi lửa Pinatubô huỷ hoại. Cây tre có sức sống tuyệt vời ở cả những vùng đất bạc màu, cằn cỗi hay đất bị ô nhiễm. Viên nghiên cứu này cũng khẳng định bộ rễ của cây tre có tác dụng ổn định nhất, chống xói mòn đất, chống xói lở bờ sông, tre mọc ken dày có thể làm giảm cường độ của gió, giảm sự tàn phá của những cơn bão và gió lốc. Người Nhật đã từng trồng thí nghiệm tre trên một vùng đất ở gần Hiroshima -thành phố bị tàn phá bởi bom nguyên tử năm 1945. Cây tre đã đâm chồi trên đất nhiễm phóng xạ ở đây sau khi được trồng vài tháng! Một phương pháp sử dụng chất bảo quản có nguồn gốc thiên nhiên mới cũng được các nhà khoa học Nhật phát minh gần đây, khi mà trong quá trình nghiên cứu xử lý tre dùng làm đồ nội thất và làm thùng chứa, họ vô tình phát hiện một chất có khả năng chống ôxy hoá mạnh có trong vỏ cây tre. Nếu như cây cà kheo bằng tre được người dân miền biển VN sử dụng từ xa xưa để đánh bắt một số loại hải sản, thì ở Australia hiện nay, môn thể thao khá phổ biến là lướt sóng biển bằng ván gần đây có nét mới: loại ván trượt được ưa chuộng được làm bằng tre phủ một lớp nhựa epoxy bằng công nghệ cao.

Đất nước Triều Tiên từ xa xưa cũng đã sử dụng tre, nứa trong đời sống. Loại muối tre có tên là Chukyom được dùng ở nước này từ khoảng 1.000 năm, loại muối này còn được hoà tan vào nước dùng như một thứ thuốc chữa bệnh đau dạ dày. Người ta cho muối vào ống tre, dùng một loại đất sét đặc biệt bịt kín lại rồi nung trong nồi đất kín trong một khoảng thời gian xác định thu được một hỗn hợp. Hỗn hợp này hiện còn được chế biến, đưa cả vào kem đánh răng (hiện đang bán phổ biến trên thị trường VN với tên thương mại là Bamboo Salt). Gần VN hơn là Indonesia, đất nước có nhiều tương đồng với VN về văn hoá. Một số nơi ở nước này, như ở đảo Bali đang phát triển trồng và chế biến tre. Tre đã được sử dụng để làm những căn nhà cao tới 8 m (dùng kèm với các loại vật liệu nhẹ khác) - một dạng nhà kính khung tre, và một số đồ nội thất khác như bàn máy tính bằng tre. Một tổ chức có tên là Tre bảo vệ môi trường đã ra đời ở đảo Bali nhằm cổ vũ cho việc trồng tre và sử dụng sản phẩm từ tre trong đời sống. Tổ chức này hiện có hơn 80 giống tre đã và đang cung cấp rất nhiều cây giống tới nhiều vùng ở Indonesia, cùng với phương pháp chăm sóc tre với những ưu điểm là giá thành thấp, có khả năng chống côn trùng, nấm mốc cho tre. Tổ chức này tin rằng mình đang đi đúng hướng, khi mà hiện nay nhu cầu tiêu thụ gỗ toàn thế giới đang lớn hơn mức cung, và cứ mỗi ngày lại có thêm nhiều cánh rừng biến mất. Cũng dùng tre để làm nhà, nhưng ở Hồng Kông còn có những ngôi nhà cao tới 40 tầng đã được dựng với vật liệu chủ yếu là tre. Trong tương lai gần ở Hồng Kông sẽ mọc lên nhiều ngôi nhà có khung bằng tre đã qua xử lý đặc biệt.

Thái Lan có nhiều nhà máy chế biến sản phẩm tre. Sản phẩm phụ của một số nhà máy như thế lại trở thành nguyên liệu cho dân trong vùng nơi có nhà máy chế tạo đồ thủ công mỹ nghệ và đồ dùng sinh hoạt hàng ngày. Tre cũng được trồng từ lâu ở Nepan, ấn Độ, và ngày càng được coi trọng vì độ bền và tính hiệu dụng trong cuộc sống người dân ở đây. Nước ta cũng như một số nước quanh vùng đang sử dụng các cây thuộc họ tre làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp giấy. Đã có một thời, tre và một số cây thuộc họ tre đã được chúng ta phát triển để chế biến XK. Khi thị trường truyền thống với hàng mây tre VN là Liên Xô và các nước Đông Âu không còn, ngành thủ công mỹ nghệ mây tre lạc hậu và công nghệ của ta đã suy sụp. Sau một số năm, khi mà các rặng tre làng đã trở nên “hiếm”, thì tre nứa chỉ còn được dùng chủ yếu làm nguyên liệu giấy và sử dụng với nhu cầu nhỏ ở thôn quê, chỉ một số loại tre trúc được trồng làm cây cảnh được coi là “có giá trị kinh tế”. Gần đây cây tre đã được quan tâm trở lại. Còn việc nghiên cứu cải tạo giống tre trúc không biết bao giờ mới được tiến hành. Phong trào trồng cây luồng ở một số địa phương gần đây là một tín hiệu đáng mừng. Cây tre, loại cây mà có thời gần gũi với người Việt Nam cũng như cây lúa, hi vọng sẽ tìm lại được vị thế xứng đáng của nó.

Theo Đỗ Minh Đức - Diễn dàn doanh nghiệp

Cây tre Việt nam

tre việt nam
Tre xanh Việt Nam

Đã từ rất lâu rôi, cây tre là người bạn thân thiết của người nông dân, người nhân dân Việt Nam.Tre có mặt ở khắp mọi miền đất nước. Từ những bụi tre nhỏ bên đường đến luỹ tre thân quen ở làng tôi và đến cả những luỹ tre bạt ngàn ở Đồng Nai, đồng bằng sông Cửu Long... Tre làm bạn với ta ở khắp mọi nẻo đường.

Dáng tre tuy có vẻ khẳng khiu nhưng thân tre luôn mọc thẳng như đức tính của mỗi người luôn sống ngay thẳng. Không chỉ có thế, từng cành tre yếu ớt với những chiếc lá xanh mỏng manh đã cùng thân tre chống chọi với mọi thời tiết khắc nghiệt nhất nhưng tre vẫn có thể vượt qua tất cả để rồi lại tiếp tục kiên cường sống với ý chí và lòng kiên nhẫn như người. Trẻ em ngày xưa đã được ông bà, cha mẹ kể cho những câu chuyện cổ tích xưa hàng ngày để cho chúng đi vào trong hồi ức của lũ trẻ, trong số đó cũng có chuyện Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt đánh giặc. Thánh Gióng vừa vươn vai trở thành người lớn liền cầm roi sắt cưỡi ngựa phi thẳng ra trận. Khi roi sắt đột nhiên gãy, anh đã nhổ bụi tre bên đường làm vũ khí cho mình đánh tan quân giặc. Tại bến sông Bạch Đằng lịch sử, Ngô Quyền đã tiêu diệt mấy chục chiếc thuyền chiến của quân Nam Hán khi đóng cọc tre dưới đáy sông làm đắm tàu giặc. Và còn nhiều chuyện khác đều liên quan đến tre và nhờ tre cùng gắng sức chống quân giặc với nhân dân ta. Từ những vũ khí thô sơ ngày xưa như :giáo, cung, tên, ..cũng đều đước làm bằng tre. Cộng đồng của tre cũng như người. Chúng cùng chung sống với nhau hoà bình từng bụi, rồi đại gia đình lớn hơn trở thành luỹ tre dày đặc, cùng bảo bọc cho nhau thể hiện sự đoàn kết gắn bó giữa chúng thất là đáng quý!

Luỹ tre đầu làng đã gắn bó với tôi thuở nhỏ. sau khi đã chơi đùa thoả thích, tôi cùng mấy đứa bạn ngồi nghỉ mệt dưới một bụi tre. Cành tre phe phẩy trên đầu chúng tôi như muốn giúp chúng tôi đỡ mệt. Tre không chỉ là thành luỹ chắc chắn của làng mà nó còn xuất hiện thường ngày với đời sống của chúng tôi. Từ ngày mới lọt lòng, trẻ em đã được nằm trong chiếc nôi bằng tre êm ái đung đưa nhẹ nhàng giúp trẻ dễ dàng chìm vào giấc ngủ sâu cùng tiếng ru hời của mẹ. Khi đã lớn hơn một chút, trẻ em có ống sáo tre, trúc làm bạn cùng cất lên những âm thanh vén von, êm ả những khúc nhạc đồng quê giản dị:”con cò là cò bay lả, lả bay la….”,làm khoan khoái đôi tai của đàn trâu đang ung dung gặm cỏ. Cái hay của tiếng sáo tre là có thể vang vọng rất xa và tiếng mới trong trẻo làm sao! Như tất cả đều là nhờ vật liệu làm ra saó, cây tre. Sau khi đã trưởng thành, mọi người trong mỗi bữa cơm sẽ bắt gặp cách đong gạo bằng rổ tre, cách làm rổ tre cho những việc khác nữa. Đến thứ để gấp thức ăn vào miệng lại chính là chiếc đũa tre. Với tuổi già lại lấy làm vui với chiếc tẩu thuốc bằng tre. Hễ hút thuốc lại thấy khoan khoái cả người. Đến cả khi gần đất xa trời, lại nằm trên chiếc giường tre để an nghỉ.

Tre với mọi người, tre chào đón, nâng niu sinh linh mới, tre buồn rũ đưa tiễn người ra đi. Thật là thuỷ chung! Tre bảo bọc cho mỗi người từ nhỏ đến lớn., Thử hỏi xem có đứa trẻ thôn quê nào dám nói là mình không có tình cảm với tre? Đến những chiếc diều giấy tự làm của bọn trẻ cũng có khung làm từ tre. Nhanh nhẹn bắt lấy từng que chuyền đánh chắc bằng tre, trò chơi quen thuộc của các bạn nhỏ. Tre cũng như con người rồi cũng có lúc phải chết nhưng cứ mỗi cây tre ngã xuống sẽ mọc lên một mầm sống mới, đó là măng. Dù có ra đi, tre cũng để lại con của mình với niềm hi vọng chúng sẽ tiếp nối thế hệ cùng hoà đồng, giúp đỡ, che chở cho con người như thế hệ tre đi trước…
Sau này, lớn lên, dù có đi đến bất kì nơi đâu, bất kì cảnh quan tuệt đẹp nào cùng những biểu tượng hoa mĩ đến dường nào, tôi cũng có thể tự tin vỗ ngực nói với bạn bè thế giới rằng:”nới dẹp nhất chính là quê hương tôi. Ở đó, cây tre là biểu tượng, niềm tự hào rực rỡ của dân tộc tôi, quê hương tôi, đất nước tôi, cuộc đời tôi. Cao quý nhưng không mĩ lệ, cây tre Việt Nam!!!

Theo: ngoisaoblog.com

Làng tôi xanh bóng tre

xanh bóng tre, văn hóa việt
Nhạc sĩ Văn Cao
Sáng tác: Văn Cao
Trình bày: Tam Ca Áo Trắng

Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ rung
Đời đang vui đồng quê yêu dấu
Bóng cau với con thuyền, một giòng sông.
Nhưng thôi rồi còn đâu quê nhà, ngày giặc Pháp tới làng triệt thôn.
Đường ngập bao xương máu tơi bời, đồng không nhà trống tan hoang.

Chiều khi quân Pháp qua
Chiều vắng tiếng chuông ngân, phá tan nhà thờ xưa.
Làng tôi theo đoàn quân du kích,
Cướp ngay súng quân thù trả thù xưa.
Bao căm hờn từ xa quê nhà, rừng chiều nhớ cánh đồng chiều xưa.
Từ xa quê trông lớp cây già, làng quê còn thấy buồn đau.

Ngày diệt quân Pháp tan,
Là lúc tiếng chuông ngân, tiếng chuông nhà thờ rung.
Làng tôi theo đoàn quân chiến thắng, đánh tan lũ quân thù về làng xưa.
Dân tưng bừng chặt tre phá cầu, cùng lập chiến lũy đào hào sâu.
Giặc chưa tan chiến đấu không thôi, đồng quê chào đón ngày mai.

Làng Tôi

Việt Nam – cái tên được nhắc đến trên bản đồ thế giới không phải từ những điều kiện tự nhiên ưu đãi hay sự phồn thịnh của một quốc gia, hơn hết thảy đây là đất nước được nhắc đến với lich sử đấu tranh anh dũng, kiên cường và lòng yêu nước, yêu chuộng hòa bình độc lập, tự do. Tinh thần ấy, sức chiến đấu bền bỉ ấy đã ghi dấu đậm nét trong các tác phẩm thơ văn và âm nhạc trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Và ca khúc “Làng tôi” của nhạc sĩ Văn Cao là một điển hình thi ca mang sức sống trường tồn của dân tộc với những nét họa sinh động về quãng thời gian chiến đấu gian khổ và chiến thắng vẻ vang như vậy.

Ngay từ tựa đề ca khúc, ai cũng dễ nhận thấy trong tác phẩm này Văn Cao đề cập đến nơi mà sự bình yên luôn ngự trị: làng quê Việt Nam. Và trong những lúc xông pha trận mạc hay những khi cuộc sống bình yên, trong tâm trí bất cứ ai cũng mường tượng ra cảnh thanh bình của làng quê ấy. Và đặc trưng của làng quê mà người ta hay nhắc đến đó là hình ảnh trữ tình với cây đa, bến nước, sân đình, với những lũy tre xanh mát và những cánh cò trắng trên đồng ruộng bát ngát.. Ngoài ra, trong “Làng tôi” còn có một âm thanh mà nhạc sĩ Văn Cao đã nhắc đến xuyên suốt cả tác phẩm, đó là tiếng chuông nhà thờ. Tiếng chuông mà ta bắt gặp ở bất cứ quốc gia, lãnh thổ nào cũng được hiểu như là biểu trưng của sự yên bình và hòa hợp dân tộc. Nói cách khác, ở trong mỗi con người ngoài tình yêu dành cho quê hương, đất nước còn có sự yêu chuộng và cầu phúc hòa bình.
Nơi làng quê hiền hòa ấy cũng như bao làng quê khác, những con người quanh năm chỉ biết đến cày cuốc và niềm vui hội mùa thì giờ đây trong đấu tranh cũng là những con người ấy đã phải tập làm quen với bom rơi đạn nổ, đã biết cầm chắc tay súng mà bảo vệ xóm làng. Trong khi đất nước lâm nguy, mọi sức người đều dồn lên cho mục đích cao cả và hi vọng một ngày mai máu đỏ nhuộm cờ hòa bình. Do đó, bỏ lại sau lưng ngôi nhà mái tranh có người mẹ, người vợ tần tảo, gác lại tình cảm đôi lứa và tình thân gia đình, những người nông dân một thời chân lấm tay bùn nay quyết tâm xông pha chiến trường với chỉ một ý chí nung nấu quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh để giành về độc lập tự do cho Tổ quốc.

Chỉ khi người ta sống trong một giai đoạn lịch sử đầy máu và nước mắt cùng sự hi sinh to lớn ấy, giá trị của một tiếng chuông trong buổi chiều tà càng như thôi thúc và giục lòng người tiếp tục sống, chiến đấu. Dù bao đau thương với chất chồng mất mát ra đi, dù hoang tàn, chia ly ở khắp nơi nơi xảy đến, nhưng quyết tâm trung kiên bắt nguồn từ cốt lõi của lòng yêu nước thương nòi, con dân của làng quê xưa vẫn tiếp tục trường kì gian khổ đấu tranh - “bao xương máu tơi bời”…

Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều,
Tiếng chuông nhà thờ rung
Đời đang vui đồng quê yêu dấu
Bóng cau với con thuyền, một dòng sông.

Anh dũng và quả cảm, tình yêu đất nước và sức mạnh đoàn kết đó là những phẩm chất mà chính chiến tranh đã tôi luyện nên cho bao người con bước ra từ đồng ruộng. ở trong nhạc phẩm “Làng tôi”, Văn Cao đã không nhắc đến bất cứ con người nào cụ thể mà chỉ lấy hình ảnh ngôi làng tựa như người chiến sĩ kiên cường tự biết chiến đấu và chiến thắng bằng lòng căm hận và niềm hi vọng ngày mai tươi sáng, “giặc chưa tan chiến đấu không thôi”..

Trước khi cho ra đời “Làng tôi”, nhiều người vẫn thường nghe nhạc của Văn Cao với những ca khúc tiền chiến lãng mạn như Thiên Thai, Cung Đàn Xưa, Suối Mơ, Bến Xuân, Thu Cô Liêu,.. Đó là một mảng âm nhạc đa sầu đa cảm của trí tuệ hơn người trong cái gọi là cốt cách thi nhân. Cho đến những nhạc phẩm như Sông Lô, Ngày Mùa cũng được sáng tác cùng thời kì sau 1945, âm nhạc của Văn Cao lại chảy trôi theo một bờ dạt dào giai âm cuộc sống và thời cuộc. Và “Làng tôi” làm lay động lòng người cũng bởi lẽ sự giản dị và chân giả chất chứa trong nó khiến người ta phải cảm, phải đặt mình vào tâm trạng nước mất nhà tan mới thấy hết những mất mát, căm hờn lẫn trong tình yêu quê hương và mong ước giành hòa bình. Dẫu thế, chất nhạc trong ca khúc lại không hề bi lụy, tàn thương nếu người ta chỉ bắt gặp đâu đó lời một bài thơ.

“Làng tôi” viết trên nền giai điệu Valse cung đô trưởng nhưng lại thể hiện được nhiều cảm xúc: từ nỗi đau giằng xé quê hương điêu tàn, biến lòng căm thù thành sức mạnh ý chí; từ việc miêu tả một làng quê tươi đẹp bị chiếm đóng tới hành khúc quân dân chung tay chống giặc. Âm nhạc ấy họa trong bức tranh khá nhiều mảng xanh của lũy tre lượn vòng, của tiếng chuông ngân nga thanh bình và có phần nhiều màu xám ảm đạm của chiến tranh.

Cùng với những Ngày mùa, Mùa xuân đầu tiên,.. Làng tôi là một trong những giai điệu Valse đẹp thu hút sự lắng đọng của người thưởng thức âm nhạc Văn Cao. Sự nhẹ nhàng da diết trong ca khúc này cứ theo dòng chảy thời gian mà lặng lẽ kể về làng quê ấy, với những kỉ niệm xa xưa...

Theo: Huy Hoàng

Tản mạn Cây tre Việt

lũy tre làng Việt Nam, vẻ đẹp văn hóa việt
Lũy tre làng

Dáng tre tuy có vẻ khẳng khiu nhưng thân tre luôn mọc thẳng như đức tính của mỗi người luôn sống ngay thẳng.

Không chỉ có thế, từng cành tre yếu ớt với những chiếc lá xanh mỏng manh đã cùng thân tre chống chọi với mọi thời tiết khắc nghiệt nhất nhưng tre vẫn có thể vượt qua tất cả để rồi lại tiếp tục kiên cường sống với ý chí và lòng kiên nhẫn như người. Trẻ em ngày xưa đã được ông bà, cha mẹ kể cho những câu chuyện cổ tích xưa hàng ngày để cho chúng đi vào trong hồi ức của lũ trẻ, trong số đó cũng có chuyện Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt đánh giặc. Thánh Gióng vừa vươn vai trở thành người lớn liền cầm roi sắt cưỡi ngựa phi thẳng ra trận. Khi roi sắt đột nhiên gãy, anh đã nhổ bụi tre bên đường làm vũ khí cho mình đánh tan quân giặc. Tại bến sông Bạch Đằng lịch sử, Ngô Quyền đã tiêu diệt mấy chục chiếc thuyền chiến của quân Nam Hán khi đóng cọc tre dưới đáy sông làm đắm tàu giặc. Và còn nhiều chuyện khác đều liên quan đến tre và nhờ tre cùng gắng sức chống quân giặc với nhân dân ta. Từ những vũ khí thô sơ ngày xưa như :giáo, cung, tên, ..cũng đều đước làm bằng tre. Cộng đồng của tre cũng như người. Chúng cùng chung sống với nhau hoà bình từng bụi, rồi đại gia đình lớn hơn trở thành luỹ tre dày đặc, cùng bảo bọc cho nhau thể hiện sự đoàn kết gắn bó giữa chúng thất là đáng quý!!!

Luỹ tre đầu làng đã gắn bó với tôi thuở nhỏ. sau khi đã chơi đùa thoả thích, tôi cùng mấy đứa bạn ngồi nghỉ mệt dưới một bụi tre. Cành tre phe phẩy trên đầu chúng tôi như muốn giúp chúng tôi đỡ mệt. Tre không chỉ là thành luỹ chắc chắn của làng mà nó còn xuất hiện thường ngày với đời sống của chúng tôi. Từ ngày mới lọt lòng, trẻ em đã được nằm trong chiếc nôi bằng tre êm ái đung đưa nhẹ nhàng giúp trẻ dễ dàng chìm vào giấc ngủ sâu cùng tiếng ru hời của mẹ. Khi đã lớn hơn một chút, trẻ em có ống sáo tre, trúc làm bạn cùng cất lên những âm thanh vén von, êm ả những khúc nhạc đồng quê giản dị:"con cò là cò bay lả, lả bay la....",làm khoan khoái đôi tai của đàn trâu đang ung dung gặm cỏ. Cái hay của tiếng sáo tre là có thể vang vọng rất xa và tiếng mới trong trẻo làm sao !như tất cả đều là nhờ vật liệu làm ra saó, cây tre. Sau khi đã trưởng thành, mọi người trong mỗi bữa cơm sẽ bắt gặp cách đong gạo bằng rổ tre, cách làm rổ tre cho những việc khác nữa. Đến thứ để gấp thức ăn vào miệng lại chính là chiếc đũa tre. Với tuổi già lại lấy làm vui với chiếc tẩu thuốc bằng tre.Hễ hút thuốc lại thấy khoan khoái cả người. Đến cả khi gần đất xa trời, lại nằm trên chiếc giường tre để an nghỉ. Tre với mọi người, tre chào đón, nâng niu sinh linh mới, tre buồn rũ đưa tiễn người ra đi. Thật là thuỷ chung! Tre bảo bọc cho mỗi người từ nhỏ đến lớn., Thử hỏi xem có đứa trẻ thôn quê nào dám nói là mình không có tình cảm với tre? Đến những chiếc diều giấy tự làm của bọn trẻ cũng có khung làm từ tre. Nhanh nhẹn bắt lấy từng que chuyền đánh chắc bằng tre, trò chơi quen thuộc của các bạn nhỏ. Tre cũng như con người rồi cũng có lúc phải chết nhưng cứ mỗi cây tre ngã xuống sẽ mọc lên một mầm sống mới, đó là măng. Dù có ra đi, tre cũng để lại con của mình với niềm hi vọng chúng sẽ tiếp nối thế hệ cùng hoà đồng, giúp đỡ, che chở cho con người như thế hệ tre đi trước...

Sau này, lớn lên, dù có đi đến bất kì nơi đâu, bất kì cảnh quan tuệt đẹp nào cùng những biểu tượng hoa mĩ đến dường nào, tôi cũng có thể tự tin vỗ ngực nói với bạn bè thế giới rằng:"nới dẹp nhất chính là quê hương tôi. Ở đó, cây tre là biểu tượng, niềm tự hào rực rỡ của dân tộc tôi, quê hương tôi, đất nước tôi, cuộc đời tôi. Cao quý nhưng không mĩ lệ, cây tre Việt Nam!!!

Nguồn: ngoisaoblog.com

Độc đáo: Chợ Chuộng - Đông Sơn Thanh Hóa

Mỗi năm một lần, đến hẹn lại lên, nhân dân quanh vùng Đông Sơn, Triệu Sơn, Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa lại háo hức chờ đến mùng 6 tết đến phiên chợ Chuộng để được “choảng nhau” bằng cà chua, trứng gà. Người nào bị “choảng” nhiều thì năm đó có nhiều may mắn.

chợ chuộng thanh hóa, văn hóa việt nam, nét đẹp thanh hóa

Từ sáng sớm người dân quanh vùng Đông, Triệu, Thiệu đã rồng rắn đến chợ, bắt đầu vào phiên chợ, mỗi người đều mua cho mình một túi cà chua đã chín đỏ làm “vũ khí” để “choảng nhau”. Sau trận “mưa” cà chua, trứng, quần áo nhiều người nào bê bết, vỏ cà chua vung vãi khắp chợ. Ngay cả những công an viên của xã cũng bị “choảng” cà chua.

Chợ Chuộng, họp trên bãi đất rộng khoảng hơn 1000 m2, ven sông Thiều thuộc địa phận làng Giang, xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Cứ vào mùng 6 tháng giêng hàng năm, phiên chợ Chuộng lại diễn ra một lần, nhiều thanh niên đến chợ Chuộng chỉ để … ném cà chua, táo, trứng và những vật mềm khác vào người nhau để mong may mắn sẽ đến, buôn bán có lãi, mùa màng được bội thu.

vẻ đẹp việt nam, văn hóa việt

Người dân đã cất giấu vũ khí trong hàng hóa ở chợ. Giặc nghĩ đây là một phiên chợ bình thường nên mất cảnh giác, khi vị tướng phát lệnh, người dân đã dùng vũ khí giấu sẵn vùng lên khiến giặc không kịp trở tay. Từ đó để tưởng nhớ công lao của vị vua này, hàng năm cứ đến mùng 6 Tết là người dân trong vùng lại về đây họp chợ.

 Theo những người cao niên sinh sống đây thì, không ai biết chợ có từ bao giờ, nhưng năm nào cũng họp một lần vào ngày mùng 6 tết, dù mưa, hay nắng đều đến chợ rất đông, chủ yếu vẫn là nam thanh, nữ tú đến đây để giao lưu. Chợ họp từ rất sớm đến khi hết người mới kết thúc, có năm đến tối mịt mới hết chợ./

Cây tre Văn hóa

 Ở đâu người ta cũng có thể thấy cây tre trên đất Việt, nó được gắn bó với cổ sử trong việc giữ gìn khỏi ngoại xâm, trong tay của vị Thánh Gióng. Nó được hình tượng trong văn hoá làng xóm bằng luỹ tre làng, nó được nhân hoá là con người chính trực, nó biểu trưng sức mạnh dẻo dai của con người dưới thử thách.

Không riêng gì tại Việt Nam, có thể thấy tại Nhật Bản, cùng với thông và mận, tre là một trong ba cây báo điềm lành.

Tại Trung Hoa, cây tre là một trong những yếu tố chính của hội họa đời Tống, phái Thiền tông trong Phật Giáo lấy nó để chiêm niệm về cành lá vô ưu, từ đó có ảnh hưởng nhiều trên tranh thuỷ mặc. Giống như nghệ thuật Zen của Nhật Bản, tại Trung Hoa các thiền sư vẽ tre không chỉ là một nghệ thuật: còn là rèn luyện tinh thần, tập chú để đổ rỗng, chú tâm để nhập định. Cây tre với hình thức tuyệt vời của nó: Dáng thẳng tắp chẳng có gì so sánh nổi, trong tư thế phóng lên trời với lòng không (rỗng đốt).

Cây tre trong đó có thể tìm gặp thấy hai ưu điểm, mềm mại như cánh hoa hồng, đó là nhân đức của tình thương; cứng rắn như kim cương, nhân đức của một con người tuân theo kỷ luật. Nó còn là hình ảnh của shunyâta, sự trống rỗng của trái tim - với Phật giáo, thậm chí với Đạo giáo, là biểu tượng của các đặc tính và mục đích của việc tu luyện. Trong thiền quán, người ta còn đọc ra nơi cây tre một dấu chỉ của sự bình an nội tại, bình an trong tâm hồn của chính mình để bình an cho khắp cả thiên hạ, sự bình an của nó biểu trưng nơi “cành lá vô ưu”.

Có một điều khác cũng không nên quên sức gợi của tiếng tre kẽo kẹt, một vài bậc hiền minh coi là tín hiệu của sự thông tuệ. Thiền sư Obaku Taiho (1691-1774) người Trung Hoa di cư sang Nhật Bản 1722, người chuyên vẽ về cây tre, ông đã đưa cây tre vào trong thiền quán với những dòng thư pháp một cách linh hoạt để gợi nhắc định tâm. Trong tác phẩm “Tre trong tuyết” được tác giả vẽ bằng mực trên lụa, vừa mềm mại vừa tỏ tính kiên trung dưới trời giá rét, những cành lá bắt chéo nhau như vòng tay nguyện cầu, song cũng có những chiếc lá đứng thẳng trên trời không, cũng giống như bàn tay khấn cầu đưa lên trong sự thống thiết. Những nét vẽ như một ngôn ngữ đích thực, với những gam màu, sự hoà quyện không gian và thụ tạo, chỉ bằng trực giác tinh tuyền mới có thể đạt đến được.

Tại nhiều miền văn hoá khác nhau, trong rừng sâu, người ta dùng tre để đốt lửa đuổi thú dữ, xua đuổi tà khí, nhờ những tiếng nổ từ những đốt tre nổ tung do bị bịt kín trong khi đốt làm nên những tiếng nổ xua đuổi.

Thường bụi tre rậm cũng biểu trưng cho sự trở ngại cổ điển, thường thấy trong tranh hình vẽ khu rừng tội lỗi mà chỉ có con hổ, biểu tượng quyền năng tinh thần của đạo Phật, mới vượt qua được. Một văn bản đời Đường đồng nhất cây tre với con rắn, hình như tre biến thành rắn là việc dễ dàng (hẳn là theo nghĩa lành).

Đối với người Bamoun và người Bamiléké, một khúc tre gọi là Guis (nụ cười) là một biểu tượng của niềm vui, niềm vui giản dị được sống, không bệnh tật, chẳng ưu tư.

Trong thời kỳ đồ đá, thanh tre được hơ cho rắn lại để làm nên những dụng cụ sắc bén, để cắt, để săn thú và có khi dùng để chặt. Công dụng của cây tre thì nhiều vô kể, cây tre làm nhà, làm giường làm tủ, làm rổ làm rá, cây tre dùng để câu cá, để làm bẫy, làm rọ, làm nơm… Trong văn hoá thì dùng làm bút, than làm mực, thanh tre làm bản ghi, làm tranh khắc… Cây tre trở thành mặt hàng công nghiệp xuất khẩu với các mặt hàng Mây, Tre, lá. Tính năng đa dạng của cây tre nói lên tinh thần tháo vát của người Việt từ bao đời nay. Không có khó khăn nào mà không vượt qua được. Nó đại diện cho sự chân thành mà không sáo rỗng, nó dùng để làm thân nhang tỏ niềm tri ân, nó dùng để làm nên ống để dẫn nước về làng, dùng làm nồi để nấu cơm, nướng thịt… Khắp cả cuộc sống cây tre đều có mặt, đơn giản nhưng không thể thiếu. Mộc mạc nhưng không thể vắng. Nó bao hàm nhiều tính chất tâm hồn thầm lặng mà kiên trung.

Nhiều nơi trên vùng cao nguyên, người dân tộc tại Việt nam dùng nó như những thanh nhạc làm nên chiếc đàn Tơ- rưng, dùng trong lễ hội. Là nhạc khí, cây trúc, được khoét rỗng, để bịt lại một đầu, làm nên cây sáo trúc, trẻ em chăn trâu thường dùng thổi những khúc nhạc đồng quê. Chỉ ở đây thôi, với những nhạc khí làm bằng tre đã thấy biểu lộ sự yên bình của một cõi tu trải dài trên Đất Việt.

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Vẻ đẹp phố cổ Hội An

Hội An trở thành dấu son trên bản đồ du lịch không phải chỉ là những ngôi nhà cổ hay không gian hoài niệm. Nơi ấy có bề dày vẻ đẹp văn hóa đa dạng của thương cảng cổ từng ghi dấu mối giao lưu, tiếp biến nhiều nền văn hóa. Nơi đó là sự hòa trộn sự trải nghiệm cùng nết ăn, ở và sống, vui giữa thiên nhiên mơ mộng hay giữa những người từ làng hay lên phố.

Những chiếc đèn lồng lung linh, sắc nâu của nhà cổ và cả những đôi dép cói là hình ảnh đặc trưng của phố cổ Hội An (tỉnh Quảng Nam). Đi dạo trên xe đạp, trong sớm mai hay những buổi chiều tà, bạn sẽ có cảm giác bình yên.

đèn lồng hội an, vẻ đẹp Hội an, vẻ đẹp việt
 Đèn lồng và xe đạp là hình ảnh quen thuộc ở Hội An.

nhà cổ hội an, vẻ đẹp Việt nam
Sắc nâu của nhà cổ, sắc đỏ của đèn lồng và màu xanh miên man của bầu trời.

Góc phố Hội an, vẻ đẹp Hội An
Du khách có thể tự tay làm một món quà tặng người thân.

đèn lồng Việt nam, vẻ đẹp Hội an
Ban ngày, đèn lồng rực rỡ khắp nơi…

chiều Hội an, vẻ đẹp chiều
… và lung linh khắp những con phố nho nhỏi xinh xắn.

Dãy phố hội an, nét đẹp Việt
Dạo phố bằng xe đạp cũng đem lại những niềm vui riêng.

Ngôi nhà cổ, việt nam độc đáo
Góc phố này đã xuất hiện trong phim : "Dòng máu anh hùng”.

sông nước Hội an, vẻ đẹp Hội an
Bạn có thể ngồi bên bến cảnh Hội An, ngắm nhìn những con thuyền lững lờ lướt qua.

tranh ảnh, nét đẹp Hội An, Việt nam
Hình ảnh con người Hội An được thể hiện ở những bức tranh bán tại các gallery ở Hội An.

dép Hội an, tre xanh Việt nam, vẻ đẹp Việt
Ngoài đèn lồng, những đôi dép cói cũng được du khách chọn làm quà cho người thân.

Không phải ngẫu nhiên Hội An luôn được bình chọn vào top 10 điểm du lịch hấp dẫn nhất thế giới, bởi sở hữu cùng lúc các giá trị tổng hợp về biển, đảo và ẩm thực đường phố ngon thuộc hàng danh tiếng. Nhưng, chính công sức của nhân dân, những chủ nhân thực sự của di sản mới thực sự làm nên thương hiệu du lịch Hội An! Sức hấp dẫn của món bánh xèo, của mỳ Quảng, cao lầu... đã ngon miệng, no mắt lại càng làm say lòng người. Còn biển, đảo hoang sơ hút hồn vì sự sạch sẽ và nụ cười tươi tắn, thân thiện luôn nở trên môi người phố cũ…

Theo: Vnexpress